1. Ngoại thất
Thánh
đường Đa Minh – Ba Chuông được xây dựng theo phong cách Á Đông và mang
đậm nét văn hóa Việt. Nó vừa mang dáng dấp của một ngôi đình của làng xã
Việt Nam : hình vuông, mái cong; vừa xây theo lối kiến trúc hiện đại :
bê tông cốt sắt, tường gạch ốp đá. Nhà Chúa vì thế trở nên nguy nga,
tráng lệ, nhưng lại rất thanh thoát, nhẹ nhàng.
Bình
diện vuông, theo tư duy Việt cổ, họ quan niệm trái đất vuông, được bốn
phương neo giữ. Đặc tính này được tác giả khai thác triệt để khi thiết
kế Thánh đường. Do đó, Thánh đường hiện diện trong vị thế hòa điệu tự
nhiên với khu biệt kính các Thánh và các quảng trường… tạo nên một cảnh
quan tổng thể có cả chiều cao lẫn bề rộng vừa thiêng liêng vừa ấm cúng.
a. Cổng tam quan
Cổng
Tam quan khiến chúng ta liên tưởng đến ngôi đình làng Việt Nam, một cấu
trúc đặc biệt trong một quần thể kiến trúc Việt Nam nói riêng và Đông
phương nói chung. Cổng Tam quan thường được xây dựng phía trước các
đình, làng, làm cổng đình, cổng làng. Có ba lối đi, một cổng lớn ở chính
giữa và hai cổng nhỏ hai bên.
Nói
tới cổng là nói tới một lối dẫn vào, một lối đi. Nhưng cổng Tam quan đã
trở nên ý nghĩa đặc biệt cho người dân Việt, vì nó là lối dẫn về nguồn,
là đường đi vào những nơi sinh hoạt tập thể, dấu chỉ của sự đoàn kết,
gắn bó của người dân Việt.
Tùy
theo từng loại kiến trúc mà người ta đã thay đổi, cách tân nó cho phù
hợp với ý nghĩa và tính chất của công trình. Mô hình Cổng Tam quan của
Thánh đường Đa Minh- Ba Chuông được thiết kế nhằm tạo nên sự thân thiện,
và gần gũi với tâm thức của người Việt, nhưng không sao chép theo một
mẫu kiến trúc cổ nào. Nó cũng mang ý nghĩa “phân cách không gian, làm
đẹp công trình như là một tiền đường, một khoảng lặng tạo cảm giác thong
dong thư thái và an nhàn, một dấu nghỉ, một bầu khí lặng thầm trang
nghiêm trước khi vào chầu lễ với cộng đoàn”.
Đặc
biệt, ngoài việc thể hiện nét văn hóa bản địa, Cổng Tam quan trong kiến
trúc nhà thờ còn mang ý nghĩa tôn giáo, tượng trưng cho ba nhân đức căn
bản của đạo Công giáo : đức tin, đức cậy, đức mến, tạo nên sự thánh thiện, thanh cao của công trình nhà Chúa.
b. Tháp chuông
Tháp
chuông là thành tố không thể thiếu được trong kiến trúc một ngôi nhà
thờ Công giáo. Tháp chuông có thể gắn liền với nhà thờ hoặc được xây
dựng tách biệt tùy theo ý tưởng và cách thiết kế của mỗi ngôi nhà thờ.
Tháp chuông càng cao thì tiếng chuông càng vang xa, nhằm kêu gọi mọi
người con Chúa khắp nơi trong xứ đến hiệp thông các lễ nghi phụng tự.
Ngoài ra, chuông và tháp chuông còn mang ý nghĩa “tượng trưng cho Núi
Thánh để vang âm Lời Chúa”. Trên đỉnh tháp chuông là Thánh giá “một biểu
tượng bất biến về ơn Cứu Độ”. Đặc biệt ở Thánh đường Đa Minh – Ba
Chuông, là phải có đủ ba quả chuông đồng : “một dấu ấn mang tính lịch sử
đã trở thành biệt danh của nhà thờ”.
Tháp
chuông hình trụ vuông gồm ba tầng mái với kiểu dáng mái cong truyền
thống, được cách điệu và hiện đại hóa. Mỗi góc mái là một đầu đao hình
đầu rồng quy hướng về Thánh giá, vừa thể hiện sự hội nhập văn hóa trong
kiến trúc nhà thờ, vừa chuyển tải được ý nghĩa về mặt tôn giáo “Đức Kitô
Trung Tâm”.
c. Mái cong:
Dân
Việt mình sống trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, địa hình có nhiều
đồng bằng với hệ thống sông ngòi dày đặc. Hình ảnh sông nước và con
thuyền rất gần gũi với cuộc sống của người dân. Tâm thức đó đã được thể
hiện trong quá trình sống, qua các công trình tác phẩm của dân tộc. Từ
đó cho thấy hình ảnh ngôi nhà, mái đình chính là phản ảnh sự thích nghi
của con người trước môi trường tự nhiên.
Hình
ảnh nhà mái cong hình con thuyền trên các trống đồng Đông Sơn cho thấy
nhà mái cong đã có từ lâu đời và đã trở thành nét văn hóa truyền thống
trong kiến trúc người Việt. Nét uốn cong vút tại mỗi góc tạo thành những
“tàu đao” của mái nhà Việt Nam, làm cho các tầng mái kiến trúc
dù thấp và nặng nề, được vươn cao, thanh thoát, nhẹ nhàng, cân đối và
hài hòa.
Ngoài
tính mỹ thuật trang trí và công dụng che mưa nắng của khí hậu miền
nhiệt đới, mái cong còn chuyển tải một triết lý sống uyển chuyển, linh
động “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” và một tâm hồn mở rộng (tứ
hải giai huynh đệ); một khát vọng hướng thượng, giải thoát, sự giao hòa
giữa trời cao và đất thấp, giữa con người với thần linh.
d. Tàu đao – linh vật :
Tàu
đao được tạo thành do “hai mái bên gặp nhau tạo thành đường bờ giải gẫy
khúc, lượn cong nhè nhẹ. Đường diềm giọt nước ở phía dưới uốn cong tinh
tế từ điểm giữa rồi lượn vênh lên, từ hai mái ở hai phía kéo ra góc gặp
nhau chuyển hướng hất lên đột ngột, còn cuộn lại, có khi tạo thành cái
đầu rồng duyên dáng, được xem như “đóa hoa đao đình”.
Đầu
đao có thể là hình đầu rồng, đầu chim phụng, chim câu hoặc các hoa văn
nhằm tạo tính chất linh liêng cho các công trình kiến trúc. Thánh đường
Đa Minh – Ba Chuông chọn hình đầu Rồng, vốn là một linh vật trong tứ
linh. Trong văn hoá Việt Nam, Rồng vốn là một linh vật mang đầy ý nghĩa :
Trời đất có rồng để mưa thuận gió hoà ; Đình miếu có rồng để cộng đồng
làng xã ấm no ; Minh quân có rồng để quốc thái dân an. Rồng xuất hiện
như một điềm lành, đem lại những điều may mắn và tốt đẹp.
Rồng
nơi góc mái trang trí của Thánh Đường nhắc nhớ mọi người nhớ về thuỷ tổ
của dân Việt, nhớ mình là “con rồng cháu tiên”. Hơn thế nữa tàu đao đầu
rồng với dáng dấp rồng bay ngoài ý nghĩa nhắc nhớ cội nguồn, còn khơi
gợi con đường con đường giải thoát, và diễn tả ý muốn vươn lên cao hơn,
hướng thượng và những khát khao nội tâm trong tâm thức của mỗi người tín
hữu khi đến cầu kinh, dâng lễ.
Đặc
biệt, nơi Thánh đường Đa Minh – Ba Chuông có các tàu đao đầu rồng đều
hướng về tâm điểm là Thánh giá. Thay vì “long chầu nguyệt”, những con
rồng ở đây chầu Thánh giá, thể hiện ý hướng tôn thờ biểu tượng của ơn
cứu độ.
e. Con nghê:
Con nghê
là một trong hai linh vật đặc thù của văn hóa Việt Nam, nhưng lại rất
ít được biết đến và người ta cũng không biết rõ xuất xứ ngọn nguồn của
nó. Chỉ biết rằng trong kiến trúc đền đài, lăng tẩm, người Việt mình
thường chạm khắc những cặp nghê đá, đặt hai bên tam cấp, như là để bảo
vệ, hộ phù.
Trong ý nghĩa trên, tượng nghe được đặt trước bốn phía tiền đường Thánh đường Đa Minh – Ba Chuông ngang hàng với rồng chầu. Vừa gợi lên niềm tự hào về bản sắc văn hóa của dân tộc, vừa làm cho ngôi nhà thờ tăng thêm vẻ uy nghiêm, thiêng thánh.
“Nắng mưa dầu giãi canh thâu,
Hai con nghê đá nằm chầu thiên thu”.
f. Thiên nhiên và ngoại cảnh:
Thiên
nhiên, ngoại cảnh là yếu tố căn bản trong kiến trúc Việt Nam. Cái triết
lý “vạn vật nhất thể” bàng bạc khắp nơi. Qua thiên nhiên và nhờ thiên
nhiên, con người cảm thấy gần gũi, nhẹ nhàng, một bước rất gần tới Chân,
Thiện, My.
Xung
quanh ngôi Thánh đường nguy nga tráng lệ là các quảng trường Thánh
Martinô, quảng trường Đức Mẹ La Vang, quảng trường Các Thánh Tử Đạo Việt
Nam được trang hoàng bằng những nhân tố văn hóa rất Việt: những cây đèn
đá, bờ tre, khóm trúc, cây kiểng, hòn non bộ, hồ cá… tạo nên không gian
thờ phượng rất thiên nhiên và cũng rất gần gũi với đời sống của người
dân. Những bài trí đó vừa mang nét đẹp của văn hóa Việt, vừa góp phần
làm cho ngôi Thánh đường đồ sộ hòa mình với cảnh quan tự nhiên của đất
trời, cỏ cây mây nước.
2. Nội thất:
Bước
vào trong Thánh đường, ta sẽ thấy rõ chủ ý của tác giả khi thiết kế
ngôi Thánh đường này: đưa bản sắc dân tộc vào trong kiến trúc, nghệ
thuật thánh. Điều này thể hiện qua việc thiết kế gian cung thánh và các
bài trí bên trong lòng của nhà thờ. Một trong những nét văn hóa tiêu
biểu đậm nét trong nội thất ngôi Thánh đường chính là biểu tượng Vuông – Tròn : lòng nhà thờ vuông gian cung thánh tròn, chóp đỉnh vuông – tròn, bàn thờ mặt tròn – chân vuông, Nhà Tạm vuông – tròn, .v.v.
Ý nghĩa biểu tượng “Vuông – Tròn” trong văn hóa Việt
Ai
trong chúng ta cũng từng một lần nghe câu thành ngữ “Mẹ tròn con
vuông”. Mới nghe qua chúng ta thấy có vẻ khá vô lý và đối nghịch nhau,
nhưng thành ngữ hàm chứa một ý nghĩa hết sức tốt đẹp, nhằm diễn tả cả
hai mẹ con đều khỏe mạnh sau giờ phút mãn nguyệt khai hoa; tức là nói
đến một kết quả tốt đẹp đúng như người ta trông đợi. Trong văn hóa Việt
nam, hai hình thể “vuông – tròn” trong nhiều trường hợp đi đôi, gắn liền
với nhau biểu thị cho một sự kết hợp thuận lẽ trời, và đem đến một kết
quả tốt lành, ý nghĩa ấy ta bắt gặp trong sự tích “bánh dày bành chưng”
đời vua Hùng.
Nói một cách triết lý, Vuông Tròn chính là khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn, về Âm Dương. Trong
kiến trúc Đông phương, hầu hết các đường nét bao giờ cũng là những
đường nét pha trộn giữa Âm và Dương. Bên cạnh những đường thẳng cần
thiết phải có, người ta không quên đưa những đường cong, những vòng tròn
vào, để tạo nên một tổng thể hài hòa giữa Âm và Dương. Cái mái ngói
cong cong, cái cửa sổ tròn tròn.
Từ
khái niệm vuông tròn biểu trưng của Trời Đất, đến khái niệm vuông tròn
của Âm Dương: tròn tượng trưng cho Âm tính, vuông tiêu biểu cho Dương
tính. Sự kết hợp hài hòa giữa Âm – Dương bao giờ cũng được xem là một
kết hợp thuận tự nhiên. Một kết hợp như thế luôn luôn mang lại kết quả
tốt đẹp.
Nhìn
chung, Thánh đường Đa Minh – Ba Chuông với bình đồ hình chữ Quốc. Hình
vuông làm nền như khung hình Tế Đàn Nam Giao : tượng trưng cho Đất;
khung mái bên trên hình tròn tượng trưng cho Trời. Các góc mái nhà thờ
cong vút được trang trí rồng bay tượng trưng con đường giải thoát, hướng
thượng.
a. Cung thánh
Cung
Thánh Thánh đường Đa Minh Ba Chuông được thiết kế hình tròn theo hướng
mở, tạo không gian rộng thoáng về bốn hướng, đúng với tinh thần “cánh
cửa rộng mở canh tân”. Bàn thánh là tâm điểm quy tụ mọi thành phần dân
Chúa cùng hiệp dâng lễ tế trong Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và nhờ
Chúa Kitô. Tất cả nhằm diễn tả ý nghĩa Giáo Hôi muốn mở rộng vòng tay
mời đón mọi người. Không có sự cách biệt giữa bàn thờ, cung thánh với
không gian nhà thờ, giữa chủ tế và cộng đoàn, thể hiện sự gần gũi, tinh
thần hiệp thông và chia sẻ bàn tiệc của Thiên Chúa mời gọi và thiết đãi
trong tình thân ái.
b. Bàn thờ
Bàn
thờ được làm bằng một loại gỗ quý, trên mặt đá cẩm thạch. Chất liệu gỗ,
đá là những vật liệu mang tính truyền thống trong kiến trúc xây dựng
bền vững của người Việt Nam. Khác với các bàn thờ phương Tây (hình chữ
nhật), bàn thờ ở đây hình tròn trên chân đế hình vuông, đặt giữa lòng
cung thánh tròn, trên nền vuông với các vòng tròn tam cấp. Tuy hình dáng
giữa hai cấu trúc bàn thờ Tây và Ta có khác nhau, nhưng không có sự
khác nhau về ý nghĩa, thậm chí bàn thờ ta (hình tròn) còn thể hiện ý
nghĩa rõ nét hơn.
Bàn thờ trong nhà thờ Công giáo tượng trưng cho sự hiện diện của Đức Kitô. Theo sắc thái văn hóa Á Đông, bàn thờ hình tròn tượng trưng cho Trời, chân đế hình vuông tượng trưng cho đất. Do đó, trong Đức Kitô, Trời – Đất được nối kết chặt chẽ với nhau: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
c. Nhà tạm
Nhà
Tạm tuy nhỏ bé, nhưng là nơi rất thiêng liêng trong tâm thức mọi người
tín hữu Công giáo vì là nơi cất giữ và tôn thờ Thánh Thể Chúa Kitô. Để
thể hiện tinh thần hội nhập văn hóa trong đạo Công giáo, nhiều nhà thờ
đã làm Nhà Tạm theo mô hình của một ngôi đình làng thu nhỏ, biểu tượng
văn hóa của quê hương Việt Nam. Ở đây còn hơn thế nữa, Nhà Tạm của Thánh
đường Ba Chuông lại là nơi hội tụ của nhiều đặc nét văn hóa bản địa.
Nhà
Tạm hình vuông được bao quanh bởi một mặt kiếng hình tròn. Hai cánh cửa
Nhà Tạm trạm nổi hai con rồng chầu Thánh giá. Xung quanh Nhà Tạm là
hình bát quái được cách tân : Càn – Trời ; Khôn – Đất; Ly – Lửa; Khảm –
Nước.
Những
họa tiết giản lược và cách điệu trên nhằm diễn tả ý nghĩa : Đức Kitô
vừa là chủ tể của vũ trụ thiên hình vạn trạng, vừa là chủ tể của mọi nền
văn hóa, là mạch nguồn của khởi nguyên và cùng tận.
Tòa Đức Mẹ Mân Côi |
Tòa Thánh Giuse |
d. Phù điêu
Được
trưng bày ở tiền sảnh ngôi nhà thờ, các bức phù điêu làm nổi bật sự
liên kết giữa tinh thần Kitô giáo và truyền thống văn hóa dân tộc.
Bên
trái là phù điêu Đức Mẹ Mân Côi có khoảng không gian nền với hoa sen
tượng trưng cho sự thanh khiết, nguồn nước tượng trưng cho lòng Mẹ bao
la. Tất cả những biểu tượng này đều mang tâm thức Việt.
Bên
phải là bức phù điêu Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong bối cảnh nền là
không gian thuần Việt : ngọn núi, ngôi nhà, bàn mộc – biểu lộ tinh thần
vững chãi của người cha lao động; sự công chính và sự cương trực được
thể hiện qua hình ảnh khóm tre (trúc), một biểu tượng “tiết trực tâm hư”
theo tinh thần Á đông.
e. Hội họa
Ba bộ tranh gốm bao bọc ba mặt tầng lửng bên
trong nội thất nhà thờ, gồm 15 bức họa sống động, với tổng chiều dài 60
mét, thể hiện sự hòa hợp giữa các gam màu và họa tiết, kết cấu nên một
bộ giáo lý bằng tranh sinh động. Qua đó chúng ta có dịp khắc ghi những
biến cố quan trọng trong toàn bộ tiến trình Lịch sử cứu độ của Thiên
Chúa, xuyên suốt từ Cựu ước đến Tân ước. Từ công trình Sáng tạo, Vườn
địa đàng, Giao ước Noê, Hiến tế Isaac và Giao ước Sinai, đến Bài giảng
trên núi, Bữa tiệc ly, Giao ước Thập giá, Biến cố Phục sinh và Lễ Hiện
xuống. Bên cạnh đó, bộ tranh còn diễn đạt sự hình thành và phát triển
của hạt giống Tin Mừng cứu độ trên quê hương Việt Nam từ buổi đầu cho
đến nay, như một âm vang thể hiện sự trải rộng của ơn cứu độ, vươn tới
mọi thời đại và mọi dân tộc.
Các
bức tranh gốm cho thấy một sự đan quyện hài hòa các giá trị nội dung
căn bản của Kitô giáo với những giá trị văn hóa dân tộc ẩn chứa trong
các họa tiết tiêu biểu : áo dài khăn đống, áo tứ thân, nón lá, bụi
chuối, căn nhà Việt và cả con người Việt nữa. Ý nghĩa thiêng liêng của
kiến trúc thánh trong Thánh đường thấm sâu vào từng phong cách, khung
cảnh và sắc màu làng quê rất Việt.